Select the search type
 
  • Site
  • Web
Search







bếp điện từ



bếp từ đôi
 

Lịch công tác tuần



Thông báo

  
Tiêu đề ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI
Người gửi Lê Viết Quang
Ngày gửi 18/08/2020 09:23
Nội dung

ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN

CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI

Những năm gần đây, thiên tai trên thế giới và khu vực diễn ra ngày càng phức tạp, khó lường, là một trong những mối lo lớn nhất của nhân loại. Ở nước ta, thiên tai diễn ra nghiêm trọng có các yếu tố hết sức cực đoan, bất thường, khó dự báo với những thiệt hại nặng nề chưa từng có.

A. TÌNH HÌNH THIÊN TAI THẾ GIỚI, KHU VỰC VÀ VIỆT NAM

1. Thế giới và khu vực

Các trận thiên tai lớn những năm gần đây đã gây thảm họa cho nhiều quốc gia như: động đất, sóng thần tại Nhật Bản tháng 3/2011 làm chết và mất tích 18.500 người, thiệt hại về kinh tế khoảng 300 tỷ USD; siêu bão Haiyan đổ bộ vào Philippin tháng 11/2013 làm chết và mất tích 7.800 người, thiệt hại kinh tế trên 820 triệu USD; lũ lụt tại Thái Lan vào tháng 10/2011 làm chết 747 người, thiệt hại kinh tế 45 tỷ USD. Năm 2017, 02 siêu bão đổ bộ vào nước Mỹ và gây ra mưa lớn kỷ lục với trên 34 tỷ m3, làm chết và mất tích trên 100 người, tổng thiệt hại năm 2017 của nước Mỹ là 306 tỷ USD. Động đất mạnh ở Mexico ngày 19/9/2017 làm hơn 200 người chết, mưa lũ cuối tháng 8 tại ba quốc gia Nam Á: Ấn Độ, Nêpan, Bangladdesh làm 1.200 người chết, 41 triệu người bị ảnh hưởng…

2. Việt Nam

Trong 20 năm vừa qua, các khu vực trên cả nước ta đã phải hứng chịu hầu hết các loại hình thiên tai (trừ sóng thần), gây tổn thất nặng nề về người, tài sản, cơ sở hạ tầng, tác động đến môi trường sống, hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bền vững của đất nước (trung bình mỗi năm thiên tai làm trên 400 người chết và mất tích, thiệt hại vật chất khoảng 1-1,5% GDP). Tình hình thiên tai có những diễn biến bất thường, trái quy luật, ngày càng nghiêm trọng hơn cả về cường độ và tần suất. Thiên tai xảy ra nhiều hơn ở các vùng, miền trước đây ít xảy ra. Rủi ro thiên tai một số vùng tăng do phát triển kinh tế nhanh, quy mô lớn nhưng cơ sở hạ tầng thiếu bền vững.

- Tháng 10 năm 1985, cơn bão Cecil vào Bình Trị Thiên gây nước dâng cao 4m làm 901 người chết, gần 69.000 ngôi nhà bị đổ; cơn bão Linda gió cấp 10 đổ bộ vào Cà Mau tháng 11/1997 làm gần 3.000 người chết và mất tích, trên 3.000 tàu thuyền bị chìm, hư hỏng; cơn bão số 7 năm 2005 gió cấp 12 đổ bộ vào các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ gây vỡ hàng loạt các tuyến đêbiển từ Hải Phòng đến Thanh Hóa; cơn bão Chanchu tháng 5/2006 gió cấp 12 làm 268 người chết và mất tích; cơn bão Sơn Tinh tháng 10/2012 gió cấp 14 làm 10 người chết, mất tích, hơn 60.800 ngôi nhà bị đổ, hư hại và 381 tàu thuyền bị chìm, hư hỏng.

Năm 2016, có 10 cơn bão và 07 áp thấp nhiệt đới hoạt động trên khu vực Biển Đông, trong đó có 05 cơn bão và 02 áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực tiếp và gây thiệt hại đến nước ta, làm 3.434 nhà bị sập, cuốn trôi, 87.000 ngôi nhà bị tốc mãi, hư hỏng, gần 3000 nhà bị ngập nước… Tổng thiệt hại kinh tế là 11.628 tỷ đồng.

Năm 2017 là năm có số lượng bão kỷ lục (16 cơn bão và 04 áp thấp nhiệt đới) xuất hiện và hoạt động trên Biển Đông, trong đó bão số 10, số 12 đổ bộ vào khu vực Bắc và Nam Trung Bộ và cơn bão số 16 đi qua quần đảo Trường Sa với với sức gió trên 11-12 giật cấp 13-15(rủi ro thiên tai cấp độ 4). Thiệt hại bão số 10 làm 06 người chết, 3200 nhà bị sập, đổ, gần 200.000 nhà bị hư hỏng, tốc mái, nước dâng sông lớn gây hư hỏng nặng các tuyến đê biển từ Hải Phòng đến Thừa Thiên - Huế… về kinh tế khoảng 18.402 tỷ đồng. Thiệt hại bão số 12 làm 123 người chết và mất tích, 3.350 nhà bị sập đổ, gần 300.000 nhà bị hư hỏng, 73.744 lồng, bè nuôi trồng thủy sản … về kinh tế khoảng 22.679 tỷ đồng.

- Trận lũ lịch sử năm 1999 trên diện rộng ở các tỉnh miền Trung làm 900 người chết, mất tích, gây mất mùa và để lại hậu quả nặng nề. Trận lũ lớn năm 2000 tương đương mức lũ lịch sử tại đồng bằng sông Cửu Long làm 565 người chết, hơn 263.000 ha lúa bị hư hỏng. Trận lũ lịch sử tại Quảng Ninh và các tỉnh miền núi phía Bắc năm 2015 làm 42 người chết và mất tích, gây thiệt hại nghiêm trọng ở khu vực hầm lò khai thác than. 05 trận lũ lớn liên tiếp cuối năm 2016 tại khu vực miền Trung gây ngập úng kéo dài 02 tháng làm 129 người chết, mất tích. Năm 2017 là năm có tổng lượng mưa lớn trên diện rộng, nhiều nơi mưa lớn hơn trung bình nhiều năm từ khoảng 20 đến 40%.

- Gần 20 năm qua, các tỉnh miền núi phía Bắc xảy ra trên 300 trận lũ quét, sạt lở đất với quy mô và phạm vi ngày càng lớn, gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản. Năm 2017, lũ quét, sạt lở đất đặc biệt nghiêm trọng trên diện rộng tại các tỉnh miền núi phía Bắc, làm 71 người chết và mất tích, 4.109 ngôi nhà bị sập, bị cuốn trôi. Hiện nay vẫn còn 13.246 hộ sinh sống tại những nơi không bảo đảm an toàn có nguy cơ cao ảnh hưởng lũ quét, sạt lở đất.

- Sạt lở bờ sông, bờ biển đang có diễn biến ngày càng nghiêm trọng, uy hiếp tực tiếp đến tính mạng và tài sản của nhân dân tại các khu vực ven sông, ven biển, đặc biệt tại đồng bằng sông Cửu Long và dải ven biển một số tỉnh miền Trung là những nơi tập trung dân cư đông, có nhiều hoạt động kinh tế - xã hội đang có tốc độ phát triển nhanh.

- Hạn hán và xâm nhập mạnh những năm gần đây diễn ra ngày càng phức tạp cả về phạm vi và cường độ, đặc biệt là đợt hạn hán lịch sử diễn ra từ nửa cuối năm 2014 đến giữa năm 2016 trên diện rộng tại 18 tỉnh, thành phố Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và đặc biệt đồng bằng sông Cửu Long đã gây tác động rất lớn đến đời sống kinh tế - xã hội, môi trường sinh thái trong khu vực, nhất là về sản xuất nông nghiệp, đã có trên 2 triệu người bị ảnh hưởng, 500.000 hộ dân thiếu nước sạch, 280.000 ha lúa và hoa màu bị thiệt hại, thiệt hại kinh tế lên đến 15.700 tỷ đồng.

B. CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI

1. Một số kết quả

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phòng chống thiên tai đã từng bước được bổ sung, hoàn thiện tạo hành lang pháp lý nâng cao hiệu lực quản lý và chỉ đạo điều hành hoạt động phòng, chống thiên tai.

- Tổ chức bộ máy được kiện toàn

- Cơ sở hạ tầng cho phòng, chống thiên tai được đầu tư

- Công tác chỉ đạo, tham mưu ứng phó và khắc phục hậu quả được quan tâm thích đáng và ngày càng có chất lượng

- Ứng dụng khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế ngày càng được tăng cường và tập trung vào những lĩnh vực trọng tâm.

2. Một số tồn tại, hạn chế

- Khả năng chống chịu của cơ sở hạ tầng, năng lực ứng phó của lực lượng phòng, chống thiên tai với một số tình huống thiên tai còn bất cập, lúng túng; huy động lực lượng đông đảo nhưng hiệu quả thấp, một số trường hợp còn dẫn đến sự lãng phí; nhận thức và kỹ năng tự ứng phó với thiên tai của nhiều cấp chính quyền và người dân chưa đạt yêu cầu.

- Nguồn lực cho phòng, chống thiên tai còn hạn chế, chưa có đầu mối để theo dõi, điều phối tổng thể; chưa có chính sách tài chính bền vững trước thiên tai, chưa huy động được nhiều doanh nghiệp, cộng đồng xã hội tham gia đầu tư hoặc cung cấp dịch vụ phòng, chống thiên tai.

- Trình tự thủ tục trong một số hoạt động ứng phó, khắc phục hậu quả, tiếp nhận viện trợ còn theo thủ tục thông thường nên không đáp ứng được nhu cầu, kéo dài thời gian phục hồi, tái thiết hoặc gây gia tăng thiệt hại, giảm hiệu quả đầu tư, không phù hợp với thực tiễn.

- Ứng dụng khoa học kỹ thuật còn hạn chế trong dự báo, theo dõi, giám sát, phân tích tính toán, cảnh báo, chỉ đạo, chỉ huy, điều hành với những tình huống thiên tai lớn, phạm vi rộng hoặc cục bộ như đối phó với bão mạnh, siêu bão, lũ lớn tại các khu vực sông liên tỉnh, lũ quét sạt lở đất; thiếu trang thiết bị chuyên dùng để kịp thời phát hiện, ứng phó có hiệu quả, hạn chế thiệt hại.

- Sự tham gia phối hợp của một số cơ quan chuyên ngành, địa phương, thành viên ban chỉ đạo, thực thi, giám sát thi hành Luật phòng, chống thiên tai còn nhiều hạn chế; nhiều công trình, dự án làm gia tăng rủi ro thiên tai do không lồng ghép hoặc chưa quan tâm đến nội dung phòng, chống thiên tai.

3. Nguyên nhân

- Khách quan: Do tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai có diễn biến bất thường, cực đoan hơn về cường độ, thời gian, địa điểm xuất hiện và trái quy luật; nhiều nơi có mưa cục bộ cường độ lớn, mưa trái mùa, bão đổ bộ vào những nơi từ trước đến nay ít xuất hiện, dông lốc thường xuyên xảy ra gây thiệt hại cho hầu hết các khu vực trên cả nước. Dân số tăng nhanh, quy mô xã hội, nền kinh tế ngày càng lớn, các hoạt động có nguy cơ rủi ro thiên tai ngày càng gia tăng nhanh chóng. Nhiều hoạt động sử dụng nguồn nước của các quốc gia thượng nguồn sông Mekong, sông Hồng thiếu bền vững, làm gia tăng thiên tai cho các nước hạ nguồn, trong đó có Việt Nam, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long.

- Chủ quan: Một bộ phận chính quyền, người dân nhận thức về công tác phòng, chống thiên tai còn hạn chế nên chưa thực sự quan tâm đúng mức đến tổ chức bộ máy, lực lượng, cơ sở vật chất cho công tác phòng, chống thiên tai, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đào tạo hướng dẫn nâng cao nhận thức của cộng đồng … nên lúng túng khi có tình huống thiên tai xảy ra. Tình trạng dân làm nhà ở sát sông, kênh rạch, ven sông, suối, khu vực có nguy cơ lũ quét, sạt ở đất ngày càng gia tăng; nhiều công trình cơ sở hạ tầng đã và đang làm gia tăng nguy cơ rủi ro thiên tai. Quản lý ruộng đất, quy hoạch sản xuất, cơ cấu mùa vụ ở một số địa phương chưa chú trọng đến lồng ghép nội dung phòng, chống thiên tai.

Tổ chức hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai còn bất cập, cần được chuyển biến mạnh mẽ để thực sự có hiệu lực, hiệu quả cao trong việc chỉ đạo các bộ, ngành, các vùng, miền, địa phương. Một số văn bản quy phạm pháp luật thiếu đồng bộ, chưa phù hợp thực tiễn; thiếu chính sách bền vững trước thiên tai. Nhân lực còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn, chủ yếu làm kiêm nhiệm nhất là ở cấp huyện, cấp xã; cơ sở vật chất, trang thiết bị nghèo nàn, lạc hậu, chưa đồng bộ, có khoảng cách rất lớn so với các nước trong khu vực. Tài chính còn chưa có dòng ngân sách riêng cho công tác phòng, chống thiên tai; chưa có quỹ phòng, chống thiên tai cấp quốc gia nên việc huy động nguồn lực và điều phối nhiệm vụ phòng, chống thiên tai còn hạn chế. Việc xã hội hóa, khuyến khích tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ, xây dựng công trình phòng chống thiên tai đã và đang được triển khai nhưng kết quả chưa cao.

Hợp tác quốc tế với các nước sông Mêkông, sông Hồng trong sử dụng, chia sẻ thông tin về nguồn nước, điều tiết dòng chảy, xả lũ và việc phối hợp quản lý ngư trường, tạo điều kiện tránh trú cho tàu thuyền khi xảy ra bão, áp thấp nhiệt đới còn nhiều bất cập. Khoa học, công nghệ về phòng, chống thiên tai so với các nước trong khu vực còn lạc hậu. Tình trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống thiên tai chưa được ngăn chặn triệt để, thiếu chế tài xử phạt nghiêm minh, nhất là trong lĩnh vực khai thác cát và vi phạm đê điều. Việc lồng ghép công tác phòng, chống thiên tai trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chưa được quan tâm đến gia tăng nguy cơ rủi ro.

C. ĐỊNH HƯỚNG TUYÊN TRUYỀN

1. Một số nội dung tuyên truyền trọng tâm

a. Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng; điều hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về công tác phòng, chống thiên tai

- Quan điểm của Đảng về phòng chống thiên tai thể hiện trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII của Đảng; Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011– 2020; các nghị quyết về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn … với tinh thần chủ đạo như văn kiện Đại hội XII đã nêu: “Khai thác, sử dụng và quản lý hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu”.

- Tại Hội nghị toàn quốc phòng, chống thiên tai ngày 29/3/2018, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc quán triệt quan điểm về việc xây dựng một xã hội “an toàn trước thiên tai”, trong đó nêu rõ: Phòng, chống thiên tai là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, toàn xã hội, thực hiện theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, sử dụng hiệu quả nguồn lực của nhà nước, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.Phòng chống thiên tai thực hiện theo hướng quản lý rủi ro, lấy phòng ngừa là chính, thực hiện tốt phương châm “4 tại chỗ”.Thực hiện các giải pháp quản lý tổng hợp, đồng bộ theo hệ thống, lưu vực, liên vùng, liên ngành, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ kết hợp với kế thừa những kinh nghiệm truyền thống.Nội dung phòng, chống thiên tai phải được đưa vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của cả nước, của các ngành; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực phòng chống thiên tai theo hình thức đối tác công-tư bằng các cơ chế, chính sách phù hợp.Phải kết hợp giải pháp công trình và phi công trình, kết hợp giữa khôi phục và nâng cấp sau thiên tai với yêu cầu xây dựng lại tốt hơn. Đầu tư xây dựng công trình phòng, chống thiên tai phải kết hợp đa mục tiêu.Phải có tổ chức bộ máy, thể chế tốt hơn nữa cho công tác phòng chống thiên tai. Nâng cao năng năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác phòng chống thiên tai.Hoàn thiện chính sách về tài chính để hỗ trợ cho công tác này, thúc đẩy xã hội hóa, tạo điều kiện cho hợp tác công-tư. Truyền thông về phòng chống thiên tai phải được ưu tiên hàng đầu vì liên quan đến tính mạng, tài sản của nhân dân.Bảo đảm thực thi các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia, tuân thủ quy định của luật pháp quốc tế và pháp luật Việt Nam… 

b. Kết quả thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về công tác phòng, chống thiên tai; các nội dung trong chiến lược, chương trình hành động, chính sách, pháp luật về công tác phòng, chống thiên tai của Quốc hội, Chính phủ.

Những năm qua, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành một số luật, pháp lệnh liên quan đến phòng, chống thiên tai bao gồm: Luật Tài nguyên nước năm 1998, Luật Đê điều năm 2006; Pháp lệnh Phòng, chống lụt, bão năm 1993 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Phòng, chống lụt, bão năm 2000, Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi năm 2001. Luật Phòng chống thiên tai 2013, Luật Khí tượng Thủy văn 2015 và nhiều các bộ luật liên quan khác….

Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định hướng dẫn thi hành, trong đó có: Nghị định số 08/2006/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Phòng chống lụt bão sửa đổi, bổ sung ngày 24 tháng 8 năm 2000; Nghị định số 50/NĐ-CP quy định về quy chế thành lập và hoạt động của quỹ phòng chống lụt bão của địa phương; Nghị định số 14/2000/NĐ-CP quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế phối hợp của Ban chỉ đạo Phòng, chống lụt, bão Trung ương, Ban chỉ huy phòng, chống lụt, bão và tìm kiếm cứu nạn của các bộ, ngành và địa phương (thay thế cho Nghị định số 168/1990/NĐ-HĐBT); Nghị định số 04/2010/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực phòng, chống lụt, bão; Nghị định số 113/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đê điều…

Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành các chương trình thực hiện nghị quyết của Đảng, nghị quyết của Chính phủ, quyết định về quy chế, cơ chế, chính sách về công tác phòng, chống thiên tai, như Chương trình thực hiện Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020 (ban hành theo Quyết định số 172/2007/QĐ-TTg ngày 16/11/2007)và các văn bản hoàn bổ sung tiếp theo…

Việt Nam tham gia như Nghị định thư Kyoto và Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, Khung hành động Hyogo về giảm nhẹ thiên tai, Hiệp định ASEAN về quản lý thiên tai và ứng phó khẩn cấp (AADMER)…

Hệ thống pháp luật trên đã hỗ trợ đắc lực trong triển khai các nhiệm vụ quan trọng của công tác phòng chống thiên tai.

c.Nhiệm vụ, giải pháp công tác phòng, chống thiên tai

* Một số nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới: 

1) Kiện toàn tổ chức, phân công cụ thể ban chỉ đạo, ban chỉ huy PCTT&TKCN các cấp.

2) Xây dựng kế hoạch phòng chống thiên tai cấp quốc gia và cấp tỉnh, huyện, xã.

3) Kiểm tra, giám sát việc thực thi Luật Phòng, chống thiên tai, Luật Thủy lợi, Luật Quy hoạch, Luật Khí tượng Thủy văn và các văn bản bổ sung.

4) Xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn công trình an toàn trước thiên tai, nghị định giám sát an toàn thiên tai; điều chỉnh, bổ sung các quy định về khắc phục tái thiết và tiếp nhận, phân bổ cứu trợ sau thiên tai.

5) Xây dựng chính sách xã hội hóa công tác phòng, chống thiên tai, trong đó tập trung vào khuyến khích tổ chức, doanh nghiệp tham gia công tác phòng chống thiên tai, cung cấp dịch vụ công, bảo hiểm rủi ro thiên tai, nghiên cứu khoa học, xây dựng các công trình phòng chống thiên tai.

6) Đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng phòng chống thiên tai.

7) Xây dựng Trung tâm điều hành phòng, chống thiên tai quốc gia đảm bảo đáp ứng nhu cầu theo dõi, giám sát hoạt động xã hội, cơ sở hạ tầng phòng chống thiên tai, tình hình diễn biến thiên tai để tham mưu nhanh chóng, kịp thời, chính xác và hiệu quả.

8) Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho văn phòng thường trực các cấp; bảo đảm kết nối trực tuyến từ cơ quan phòng, chống thiên tai Trung ương đến các tỉnh và công trình phòng, chống thiên tai quốc gia để chỉ đạo điều hành hiệu quả.

9) Hoàn thành xử lý cấp bách sự cố công trình đê điều, hồ đập, sơ tán dân khẩn cấp bị ảnh hưởng bởi mưa lũ, lũ quét và sạt lở đất năm 2017.

10)Xây dựng chương trình tổng thể phòng chống thiên tai các khu vực.

11) Huy động sự tham gia cả khu vực tư nhân trong phòng, chống thiên tai; đẩy mạnh các hoạt động công trong phòng chống thiên tai.

12) Đẩy mạnh thành lập và hoạt động quỹ phòng, chống thiên tai.

13) Tiếp tục nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo truyền tin thiên tai.

14) Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông, đào tạo nhằm nâng cao năng lực cộng đồng, hướng dẫn kỹ năng để tự ứng phó trong các tình huống, giảm thiểu rủi ro và thiệt hại do thiên tai gây ra.

15) Tăng cường hợp tác quốc tế và áp dụng khoa học công nghệ trong phòng chống thiên tai.

* Một số nhiệm vụ lâu dài:

 1Nâng cao nhận thức của chính quyền và người dân trong việc chủ động phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả, tái thiết sau thiên tai.

2) Giảm thiên tai về người, cơ sở hạ tầng khu vực miền núi do lũ, lũ quét, sạt lở đất.

3) Nâng cao năng lực ứng phó với lũ lớn, đảm bảo an toàn vùng hạ du ở các lưu vực sông, nhất là khu vực đồng bằng sông Hồng và ven biển miền Trung.

4) Tăng cường năng lực ứng phó với bão, áp thấp nhiệt đới, bảo đảm an toàn cho người, phương tiện trên biển, ven biển và trên đất liền.

5) Hạn chế sạt lở bờ sông, bờ biển, trọng tâm là ven biển miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long.

6) Giảm nhẹ thiệt hại do hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, thích ứng với biến đổi khí hậu.

7) Nâng cao mức bảo đảm, khả năng chống chịu của hệ thống công trình phòng chống thiên tai (đê điều, hồ đập, khu tránh trú bão…) tại các vùng miền, khu vực.

2. Một số lưu ý trong thông tin, tuyên truyền tình hình thiên tai, công tác cứu trợ, an sinh xã hội

- Tăng cường truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng kết hợp với truyền thông cơ sở kịp thời chuyển tải thông tin tới từng người dân để họ chủ động chuẩn bị, phòng tránh, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.

- Phối hợp chặt chẽ các cơ quan thông tin truyền thông trong việc đưa tin kịp thời về các hoạt động ứng phó sự cố thiên tai và tìm kiếm cứu nạn của các lực lượng.

- Chú ý đề cao trách nhiệm của các cấp, các ngành trong chỉ đạo ứng phó thiên tai và cứu hộ, cứu nạn, thể hiện ở việc hàng năm phải kiểm tra, rà soát, điều chính, bổ sung các kế hoạch, phương án phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn; tổ chức hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng theo từng phương án hạn chế thấp nhất thiệt hại, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; trách nhiệm, nghĩa vụ của người dân trong hợp tác với chính quyền trước yêu cầu ứng phó thiên tai.

- Phản ánh những vấn đề cần được nghiên cứu, bổ sung như quy chế phối hợp điều hành các lực lượng cùng tham gia ứng phó thiên tai; quy định về việc thành lập và cơ chế, chính sách, phương thức sử dụng quỹ phòng, chống thiên tai; điều chỉnh quy trình hỗ trợ ứng cứu và khắc phục hậu quả thiên tai gây ra; đặc biệt ở một số nội dung cần xử lý ngay như hỗ trợ lương thực, thực phẩm, hóa chất tiêu độc khử trùng, xử lý môi trường sau bão, lũ, hỗ trợ giống để khôi phục sản xuất...

D.  MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THIÊN TAI NĂM 2019 VÀ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM NĂM 2020 TỈNH QUẢNG NAM

I. TÌNH HÌNH THIÊN TAI VÀ TKCN NĂM 2019

1. Tóm tắt về diễn biến thiên tai:

a. Về bão và ATNĐ: Trên biển Đông có 08 cơn bão và 02 ATNĐ hoạt động, tuy nhiên các cơn bão và ATNĐ này không gây ảnh hưởng lớn đến thời tiết tỉnh Quảng Nam.

b. Về mưa lớn:

- Đợt 01: Do ảnh hưởng của bão số 05, từ 07h00 ngày 30/10/2019 đến 07h00 ngày 03/11/2019 trên địa bàn tỉnh đã có mưa vừa, mưa to. Lượng mưa tại các trạm như sau: Hiên 149 mm; Phước Sơn 205 mm; Thành Mỹ 124 mm; Hội Khách 135 mm; Ái Nghĩa 206 mm; Trà My 310 mm; Tiên Phước 208 mm; Hiệp Đức 121 mm; Nông Sơn 135 mm; Giao Thủy 196 mm; Câu Lâu 199 mm; Hội An 179 mm; Tam Kỳ 184 mm.

- Đợt 02: Do ảnh hưởng của bão số 06, từ 07h00 ngày 09/11/2019 đến 19h00 ngày 12/11/2019 trên địa bàn tỉnh đã có mưa vừa, mưa to. Lượng mưa tại các trạm như sau: Hiên 44 mm; Phước Sơn 154 mm; Thành Mỹ 85 mm; Hội Khách 132 mm; Ái Nghĩa 138 mm; Trà My 291 mm; Tiên Phước 159 mm; Hiệp Đức 130 mm; Nông Sơn 193 mm; Giao Thủy 123 mm; Câu Lâu 143 mm; Hội An 154 mm; Tam Kỳ 183 mm.

- Đợt 03: Do ảnh hưởng của không khí lạnh tăng cường kết hợp với nhiễu động trong đới gió Đông; nên từ ngày 26/11/2019 - 30/11/2019 các địa phương trong tỉnh đã có mưa, mưa vừa, có nơi mưa to đến mưa rất to. Tổng lượng mưa các địa phương vùng núi phía Tây Bắc tỉnh phổ biến 80 - 120mm, các địa phương vùng đồng bằng ven biển, trung du và vùng núi phía Tây Nam phổ biến từ 130 - 200mm, có nơi lớn hơn 200mm, như: trạm Khí tượng Trà My (huyện Bắc Trà My) 219mm, trạm đo mưa tự động Khâm Đức (huyện Phước Sơn)  271mm, trạm đo mưa tự động Xuân Bình (huyện Núi Thành) 291mm.

c. Về lũ: Trên hệ thống sông Tam Kỳ không xuất hiện lũ. Trên sông Vu Gia xuất hiện lũ nhỏ trong tháng 10/2019 (tại Ái nghĩa với đỉnh lũ 7.07m, trên báo động I là 0.57m); trên sông Thu Bồn mực nước các trạm thủy văn ở mức dưới báo động I).

d. Về không khí lạnh: Có 12 đợt không khí lạnh, tập trung trong các tháng 11, 12.

e. Về dông, lốc, sét: Trên địa bàn tỉnh xảy ra 03 đợt tập trung trên địa bàn các huyện: Đại Lộc, Quế Sơn, Tây Giang gây ra thiệt hại về nhà cửa, cây trồng, con vật nuôi... của người dân.

g. Về động đất: Trên địa bàn huyện Bắc Trà My xảy ra 04 đợt rung chấn với cường độ nhỏ hơn 3,8 độ Richte.

2. Tình hình tai nạn, sự cố trên biển:

Trong năm 2019 trên biển đã xảy ra 39 vụ tai nạn và sự cố liên quan đến ngư dân Quảng Nam làm chết 20 người, 04 người mất tích, 54 người bị thương, 05 người đau ốm; chìm 08 phương tiện; hỏng và gặp sự cố 07 phương tiện; cháy 02 phương tiện, trong đó:         

  - Tàu hỏng máy: 06 vụ/ 07 phương tiện;

  - Tai nạn: 09 vụ/ chết 05 người, bị thương 07 người, 01 người mất tích;

  - Đau ốm: 05 vụ/ 05 người đau ốm;

  - Đuối nước: 09 vụ/ 15 người chết;

  - Chìm do thời tiết: 08 vụ/ 08 phương tiện/ 41 người bị thương, 03 người mất tích;

  - Cháy tàu: 02 vụ/ 02 tàu cháy/ 06 ngư dân bị thương/ thiệt hại khoảng 04 tỷ đồng.

3. Công tác ứng phó thiên tai:

a. Đối với công tác phòng, chống thiên tai:

Năm 2019, trên địa bàn tỉnh không xảy ra thiên tai lớn. Tuy nhiên, các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị đã chủ động triển khai thực hiện một số nội dung để ứng phó với thiên tai:

- UBND tỉnh, Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh tổ chức theo dõi, nắm bắt kịp thời diễn biến thời tiết, thiên tai và kịp thời ban hành các Công điện, văn bản chỉ đạo ứng phó;

- UBND các cấp và Ban Chỉ huy PCTT và TKCN các cấp phổ biến nội dung văn bản chỉ đạo, chỉ huy ứng phó thiên tai đến cộng đồng và người dân; phương thức truyền phát văn bản chỉ đạo, chỉ huy ứng phó thông qua: văn bản điện tử, fax, email, SMS, hệ thống truyền hình, phát thanh, hệ thống thông tin cảnh báo sớm, truyền đạt trực tiếp và các hình thức khác.

b. Đối với công tác tìm kiếm cứu nạn trên sông và đất liền:

Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh thường xuyên giữ mối quan hệ chặt chẽ giữa các ban, ngành đoàn thể của tỉnh với các đơn vị quân đội đứng chân trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trong công tác phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn; trao đổi, nắm bắt các thông tin về tình hình sự cố, thiên tai với Công an tỉnh, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh, Văn phòng thường trực Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh và có biện pháp phòng chống và ứng phó kịp thời.

c. Đối với công tác tìm kiếm cứu nạn trên biển và hải đảo:

- Khi các vụ việc xảy ra, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh kịp thời báo cáo UBND tỉnh, Bộ Tư Lệnh, Ban chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh và tham mưu công tác xử lý nhằm giảm tối đa thiệt hại về người và tài sản của nhân dân.

- Tổ chức duy trì đài thông tin TKCN tại các Đồn Biên phòng tuyến biển; nắm chắc tình hình tàu thuyền đang hoạt động trên biển, chủ động thông báo cho tàu thuyền hoạt động trên biển khi có bão, ATNĐ, và thời tiết nguy hiểm.

- Áp dụng phương châm 4 tại chỗ trong công tác cứu nạn khi có tình huống trên biển, chủ động huy động tàu cá của bà con ngư dân hoạt động gần khu vực tàu bị nạn tổ chức cứu nạn.

II. THỐNG KÊ THIỆT HẠI

Năm 2019, trên địa bàn tỉnh chịu ảnh hưởng của các loại hình thiên tai: dông, lốc, sét, động đất, mưa lớn; về thiệt hại cụ thể như sau:

1. Về người: 03 người bị thương.

2. Về nhà ở:

- 04 nhà bị thiệt hại hoàn toàn;

- 32 nhà bị thiệt hại rất nặng;

- 73 nhà bị thiệt hại nặng.

3. Về giáo dục: 08 phòng học bị hư hỏng.

4. Về nông nghiệp: 645 ha lúa, 204 ha cây trồng lâu năm bị thiệt hại.

5. Về giao thông:

- Khối lượng đất, đá bị sạt lở, bồi lấp khoảng 135;900 m3;

- 550 m đường giao thông địa phương bị sạt lở, hư hỏng;

- 29 cống bị hư hỏng.

6. Về công nghiệp: 400 m dây điện bị đứt, 06 cột điện bị đỗ, gãy.

* Ước tính tổng thiệt hại khoảng 38 tỷ đồng.

III. ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THIÊN TAI

1. Thuận lợi:

- Công tác phòng, chống thiên tai ngày càng được sự quan tâm của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương, các cấp chính quyền địa phương tạo sự chủ động, tích cực và trách nhiệm trong công tác phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra.

- Việc xây dựng phương án, tổ chức thực hiện, huy động lực lượng, phương tiện thực hiện nghiêm túc, cơ bản thực hiện tốt phương châm “4 tại chỗ”; qua các đợt mưa lũ vừa qua trên địa bàn cho thấy việc chủ động của các cơ sở, sự phối hợp của các lực lượng, đã hạn chế được rất nhiều thiệt hại về người, tài sản, nhanh chóng ổn định đời sống, sản xuất của nhân dân.

- Có sự phối hợp chặt chẽ của các địa phương, đơn vị liên quan, trong đó đặc biệt là Đài Khí tượng Thủy văn, cơ quan thông tấn báo chí, các Trung tâm TKCN, các Đài thông tin Duyên hải, lực lượng vũ trang, Ban Chỉ huy PCTT và TKCN các huyện, thành phố nên việc xử lý các tình huống ngày càng phát huy hiệu quả.

2. Khó khăn:

- Tổ chức bộ máy làm nhiệm vụ phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn ở các cấp, các ngành, địa phương trên địa bàn tỉnh được thành lập và kiện toàn hàng năm, tuy nhiên hoạt động và làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, không có cán bộ chuyên trách nên một phần ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả tham mưu triển khai thực hiện; đặc biệt, đối với cán bộ địa phương cấp huyện, xã thường xuyên thay đổi vị trí công tác nên công tác phối hợp thực hiện còn nhiều hạn chế.

- Việc xây dựng Kế hoạch phòng, chống thiên tai theo quy định tại Điều 15 của Luật phòng, chống thiên tai là công việc phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực, cũng như liên quan đến quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của địa phương do đó cần phải có nguồn lực để tổ chức thực hiện.

- Chưa có quy định về kiểm soát an toàn thiên tai đối với các dự án giao thông, khu đô thị, khu công nghiệp, công trình phòng, chống thiên tai, cơ sở hạ tầng… để góp phần không làm tăng nguy cơ rủi ro thiên tai; một số dự án giao thông, khu đô thị, cơ sở hạ tầng chưa quan tâm đúng mức về tính toán thoát lũ, chống ngập nên có khả năng gây cản trở hoặc gây co hẹp dòng chảy lũ, làm gia tăng nguy cơ rủi ro của thiên tai.

- Chế độ cho cán bộ trực trong công tác phòng, chống thiên tai còn những hạn chế nhất định (tối đa 300 giờ). Tuy nhiên, với công việc phòng, chống thiên tai như hiện nay (thời gian trực cả năm) chưa đảm bảo được quyền lợi cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động làm theo chế độ kiêm nhiệm.

- Công tác trực ban của Ban Chỉ huy PCTT và TKCN cấp huyện, xã chưa được thường xuyên, nhất là vào các ngày cuối tuần nên các Công điện, bản tin, thông tin, văn bản chỉ đạo của tỉnh thường chưa được xử lý kịp thời.

- Nhận thức của một số bà con ngư dân về công tác phòng, chống thiên tai còn chưa cao, còn chủ quan trong công tác đảm bảo an toàn khi hành nghề trên biển.

3. Bài học kinh nghiệm:

- Các thông tin cảnh báo, dự báo mưa lũ, thông tin về vận hành điều tiết các hồ chứa thủy điện, mực nước vùng hạ du và các văn bản chỉ đạo của các cấp đều được đăng tải trên Web: pctt.quangnam.vn nên đã góp phần làm cho cán bộ, nhân dân, các cơ quan thông tấn, báo chí biết, theo dõi và chủ động có biện pháp ứng phó thích hợp, chủ động.

- Việc quán triệt phương châm “4 tại chỗ” (chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, vật tư tại chỗ, hậu cần tại chỗ) theo tinh thần chỉ đạo của TW phải được xuyên suốt trong công tác chỉ huy, chỉ đạo phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai ở các cấp chính quyền; phương châm này cần phải được quán triệt, vận dụng thực hiện trong từng hộ gia đình, hiệu quả công tác phòng tránh thiên tai sẽ đạt ở mức cao.

E. NHẬN ĐỊNH TÌNH HÌNH, NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM NĂM 2020  

1. Hoạt động của bão và ATNĐ: Mùa bão năm 2020 có từ 11 - 13 cơn bão, ATNĐ hoạt động trên biển Đông, có khả năng từ 05 - 06 cơn bão, ATNĐ ảnh hưởng đến đất liền nước ta; trong đó, các địa phương trên địa bàn tỉnh khả năng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ 01 - 02 cơn bão, ATNĐ.

2. Hoạt động của dông, lốc, sét, mưa đá: Từ tháng 9 - 10/2020, các hiện tượng dông, sét, tố, lốc vẫn còn xảy ra ở các địa phương Quảng Nam, tuy nhiên tần suất xảy ra thấp hơn các tháng 7, 8, sang tháng 11 chỉ còn vài ngày có dông sét, tháng 12 dông sét hầu như không xảy ra.

3. Về lũ: Trong mùa lũ, từ tháng 9 - 12/2020 các sông trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có khả năng xuất hiện 03 - 05 đợt lũ; đỉnh lũ lớn nhất năm có khả năng cao hơn năm 2019 và ở mức BĐ II - BĐ III xấp xỉ đỉnh lũ TBNN, thời gian xuất hiện đỉnh lũ lớn nhất vào tháng 10 và tháng 11.

F. TRIỂN KHAI CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THIÊN TAI NĂM 2020

1. Công tác phòng chống hạn, nhiễm mặn:

Trên địa bàn tỉnh xảy ra nhiều đợt nắng nóng kéo dài kết hợp với tình hình thiếu hụt nguồn nước trên các sông đã gây ra hạn, nhiễm mặn tại một số khu vực trọng điểm; để chủ động phòng, chống hạn, nhiễm mặn, UBND tỉnh đã có các văn bản chỉ đạo:

- Chỉ thị số 02/CT-UBND ngày 09/01/2020 về việc việc tăng cường các biện pháp phòng, chống hạn hán, thiếu nước và nhiễm mặn năm 2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam;

- Công văn số 352/UBND-KTN ngày 17/01/2020 của UBND tỉnh về việc vận hành các hồ chứa thủy điện trên lưu vực sông Vu Gia- Thu Bồn vụ Đông Xuân 2019-2020;

- Quyết định số 466/QĐ-UBND ngày 24/02/2020 của UBND tỉnh phê duyệt Phương án số 240/PA-SNN&PTNT ngày 17/02/2020 phương án Phòng, chống hạn hán và mặn xâm nhập năm 2020 đối với khu tưới Công ty TNHH một thành viên Khai thác thủy lợi Quảng Nam.

2. Công tác đảm bảo an toàn hồ chứa nước:

a. Đối với các hồ chứa nước thủy lợi:

- Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 1786/CT-BNN-TCTL ngày 10/3/2020 của Bộ Nông nghiệp và PTNT và Công văn số 413/TCTL-ATĐ ngày 18/3/2020 của Tổng cục Thủy lợi về việc tăng cường công tác đảm bảo an toàn công trình thủy lợi trong mùa mưa, lũ năm 2020.

- Sở Nông nghiệp và PTNT đã có Công văn số 910/SNN&PTNT-CCTL ngày 06/5/2020 hướng dẫn phương án ứng phó thiên tai cho công trình, vùng hạ du đập trong quá trình thi công và phương án ứng phó thiên tai, phương án ứng phó với tình huống khẩn cấp đối với đập, hồ chứa thủy lợi để các địa phương, đơn vị nghiên cứu áp dụng, xây dựng các phương án đảm bảo quy định.

- Các địa phương, chủ đập đang tổ chức kiểm tra, đánh giá mức độ an toàn của các hồ chứa nước thủy lợi trước mùa mưa, lũ năm 2020.

b. Đối với các hồ chứa nước thủy điện:

- UBND tỉnh đã có Công văn số 59/UBND-KTN ngày 06/01/2020 về việc tăng cường công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện trên địa bàn tỉnh, trong đó có giao Sở Công thương chủ trì:

+ Chỉ đạo các chủ đầu tư dự án thủy điện trên địa bàn tỉnh thực hiện nghiêm các quy định của Nhà nước tại Nghị định số 114/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 của Chính phủ, Thông tư số 09/2019/TT-BCT ngày 08/7/2019 của Bộ Công Thương;

+ Cùng với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, UBND các huyện kiểm tra công tác quản lý an toàn đập, hồ chứa thủy điện của các chủ đập, hồ chứa thủy điện; kiên quyết xử lý đối với các tổ chức, cá nhân không thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về quản lý an toàn đập, hồ chứa thủy điện, vận hành không tuân thủ các quy trình vận hành đã được duyệt.

- Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh đã chuyển giao sản phẩm bản đồ ngập lụt hạ du các hồ chứa lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn (do Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng, chống thiên tai bàn giao) đến Sở Công thương, Sở Tài nguyên và Môi trường, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Ban Chỉ huy PCTT và TKCN các huyện, thị xã, thành phố, Công ty TNHH MTV Khai thác thủy lợi, Các đơn vị quản lý hồ chứa thủy điện: Sông Tranh 2, A Vương, Đak Mi 4, Sông Bung 4, Sông Bung 4A, Sông Bung 5 để nghiên cứu, ứng dụng kết quả vào việc rà soát, bổ sung phương án sơ tán dân vùng hạ du, xây dựng phương án ứng phó thiên tai, phương án ứng phó với tình huống khẩn cấp và công tác chỉ huy ứng phó thiên tai trên địa bàn.

3. Công tác thực thi các văn bản quy phạm pháp luật về PCTT:

a. Xây dựng Kế hoạch phòng, chống thiên tai và Phương án ứng phó với thiên tai theo từng cấp độ:

- Kế hoạch phòng, chống thiên tai:

+ Thực hiện Công văn số 1657/UBND-KTN ngày 26/3/2020 của UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và PTNT đã có Công văn số 688/SNN&PTNT-CCTL ngày 10/4/2020 báo cáo kết quả tổ chức thực hiện Kế hoạch phòng, chống thiên tai giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn tỉnh tại Quyết định số 474/QĐ-UBND ngày 31/01/2018 của UBND tỉnh gửi Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai;

+ Để việc phối hợp triển khai xây dựng Kế hoạch Phòng, chống thiên tai giai đoạn 2021-2025 đảm bảo quy định tại Điều 15 của Luật Phòng, chống thiên tai, Sở Nông nghiệp và PTNT đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Công văn số 2096/UBND-KTN ngày 16/4/2020 gửi các Sở, ngành, địa phương có liên quan triển khai thực hiện một số nội dung và gửi về Sở Nông nghiệp và PTNT để tổng hợp xây dựng Kế hoạch phòng, chống thiên tai cấp tỉnh giai đoạn 2021-2025.

- Phương án ứng phó với thiên tai theo từng cấp độ rủi ro: Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh đã có Công văn số 19/BCHPCTT&TKCN ngày 17/02/2020; Công văn số 49/BCHPCTT&TKCN ngày 21/4/2020 gửi UBND các huyện, thị xã, thành phố để rà soát, xây dựng và phê duyệt Phương án ứng phó với thiên tai theo cấp độ rủi ro năm 2020 gửi Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh trước ngày 26/6/2020.

b. Kiện toàn Ban Chỉ huy PCTT và TKCN các cấp, Đội xung kích cấp xã:

- Đối với cấp tỉnh:

+ UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 700/QĐ-UBND ngày 07/3/2017 về việc thành lập Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Quảng Nam; Quyết định số 1340/QĐ- UBND ngày 09/5/2019 về việc điều chỉnh, bổ sung một số nội dung Quyết định số 700/QĐ-UBND ngày 07/3/2017 của UBND tỉnh;

+ Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh đã ban hành Quyết định số 93/QĐ-BCHPCTT&TKCN ngày 01/7/2019 về việc phân công nhiệm vụ thành viên Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh; Quyết định số 24/QĐ-BCHPCTT&TKCN ngày 14/02/2020 về việc điều chỉnh và phân công nhiệm vụ thành viên Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh; Công văn số 71/BCHPCTT&TKCN ngày 27/5/2020 về việc kiện toàn Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh.

- Đối với các cấp địa phương:

- Củng cố, kiện toàn Ban Chỉ huy PCTT và TKCN theo quy định tại Nghị định số 160/2018/NĐ-CP ngày 29/11/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống thiên tai;

- Để triển khai thành lập, củng cố Đội xung kích theo đúng quy định, phù hợp với tình hình thiên tai và điều kiện cụ thể của từng địa phương nhằm nâng cao hiệu quả phương châm “4 tại chỗ” trong phòng chống thiên tai, đặc biệt là công tác ứng phó tại chỗ ngay giờ đầu khi có tình huống thiên tai; Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh đã có Công văn số 53/BCHPCTT&TKCN ngày 22/4/2020 thực hiện Quyết định số 08/QĐ-TWPCTT về việc ban hành hướng dẫn xây dựng và củng cố Đội xung kích phòng, chống thiên tai cấp xã.

c. Công tác triển khai thực hiện Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 18/6/2018 của Chính phủ về công tác phòng, chống thiên tai:

Hiện nay, Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh đang tổng hợp, báo cáo kết quả thực hiện Quyết định số 2663/QĐ-UBND ngày 31/8/2018 của UBND tỉnh về Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 18/6/2018 của Chính phủ về công tác phòng, chống thiên tai.

d. Công tác Quỹ phòng, chống thiên tai:

- Sở Nông nghiệp và PTNT đã tham mưu UBND tỉnh:

+ Văn bản triển khai Nghị định số 83/2019/NĐ-CP ngày 12/11/2019 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 94/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ về thành lập và quản lý Quỹ phòng, chống thiên tai;

+ Dự thảo các Quyết định của UBND tỉnh về kiện toàn tổ chức, Quy chế tổ chức và hoạt động, Quy chế quản lý thu, nộp, sử dụng và quyết toán của Quỹ Phòng chống thiên tai.

- UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 754/QĐ-UBND ngày 20/3/2020 về việc cấp kinh phí để tổ chức các lớp tập huấn nâng cao năng lực phòng chống thiên tai trên địa bàn tỉnh năm 2020 với tổng kinh phí: 336.514.500 đồng.

4. Thông tin, truyền thông, phổ biến giáo dục pháp luật về phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn:

- Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh tiếp tục hoàn thiện trang thông tin điện tử tại địa chỉ http://pctt;quangnam;vn, trang Facebook "Quảng Nam - Thông tin phòng chống thiên tai" và đề nghị các địa phương tổ chức tuyên truyền, phổ biến địa chỉ trang thông tin điện tử của Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh để nhân dân biết, chủ động theo dõi thông tin chỉ đạo, điều hành công tác phòng, chống thiên tai và thông tin về vận hành, điều tiết các hồ chứa thủy điện trên địa bàn tỉnh;

- Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh Tham mưu UBND tỉnh chi 336.514.500 đồng từ nguồn Quỹ Phòng, chống thiên tai để tổ chức các lớp tập huấn nhằm nâng cao năng lực phòng chống thiên tai trên địa bàn 15 xã;

- Thực hiện dự án "Tăng cường khả năng chống chịu thiên tai tại các tỉnh miền Trung, Việt Nam - Giai đoạn 3" do USAID tài trợ thông qua Tổ chức SCI tại Quyết định số 3068/QĐ-UBND ngày 25/9/2019; Địa điểm thực hiện: Xã Phước Ninh, huyện Nông Sơn và phường Thanh Hà, thành phố Hội An; Thời gian thực hiện dự án đến ngày 23/3/2021;

- Tham mưu UBND tỉnh ban hành văn bản để triển khai tổ chức các hoạt động hưởng ứng Tuần lễ Quốc gia phòng chống thiên tai năm 2020.

G. MỘT SỐ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM TRONG NĂM 2020

Để chủ động ứng phó với các tình huống thiên tai có thể xảy ra, giảm thiểu thiệt hại về người, tài sản và các hoạt động kinh tế xã hội trong thời gian tới, Ban Chỉ huy PCTT và TKCN tỉnh đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác phòng, chống thiên tai năm 2020, cụ thể như sau:

1. Tiếp tục theo dõi, đôn đốc, triển khai thực hiện Quyết định số 474/QĐ-UBND ngày 31/01/2018 về phê duyệt Kế hoạch Phòng, chống thiên tai giai đoạn đến năm 2020; Quyết định số 2663/QĐ-UBND ngày 31/8/2018 ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 18/6/2018 của Chính phủ về công tác phòng, chống thiên tai; Chỉ thị số 08/CT-UBND ngày 08/8/2018 về công tác phòng tránh lũ ống, lũ quét, sạt lở đất; Kế hoạch số 638/KH-UBND ngày 30/01/2019 của UBND tỉnh về triển khai thực hiện Nghị định số 160/2018/NĐ-CP ngày 29/11/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống thiên tai trên địa bàn tỉnh.

2. Củng cố, kiện toàn Ban Chỉ huy PCTT và TKCN các cấp theo quy định tại Nghị định số 160/NĐ-CP ngày 29/11/2018 của Chính phủ ngày 29/11/2018 về hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Phòng, chống thiên tai.

3. Xây dựng Kế hoạch phòng, chống thiên tai giai đoạn 2021 – 2025; rà soát, cập nhật, bổ sung và phê duyệt Phương án ứng phó với thiên tai theo cấp độ rủi ro các cấp năm 2020.

4. Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, nâng cao năng lực của Văn phòng thường trực Ban Chỉ huy PCTT và TKCN các cấp để đáp ứng được yêu cầu trong công tác tham mưu chỉ đạo, ứng phó với thiên tai.

5. Triển khai thực hiện thu, chi Quỹ phòng, chống thiên tai theo quy định tại Nghị định số 83/2019/NĐ-CP ngày 12/11/2019 của Chính phủ về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 94/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ.

6. Triển khai thuê bao dịch vụ trạm khí tượng thủy văn chuyên dùng theo Kế hoạch số 4905/KH-UBND ngày 13/9/2017 của UBND tỉnh về việc ban hành Kế hoạch Phát triển mạng lưới trạm khí tượng thủy văn chuyên dùng phục vụ công tác phòng, chống thiên tai trên địa bàn tỉnh.

7. Theo dõi, giám sát, chỉ đạo vận hành, điều tiết các hồ chứa thủy điện trên lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn theo Quy trình 1865/QĐ-TTg ngày 23/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ.

8. Thành lập Đội xung kích phòng chống thiên tai cấp xã đảm bảo đủ số lượng, thành phần và xây dựng quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Đội xung kích phòng chống thiên tai cấp xã theo tài liệu Hướng dẫn xây dựng và củng cố Đội xung kích phòng chống thiên tai cấp xã kèm theo Quyết định số 08/QĐ-TWPCTT của Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng chống thiên tai (đã được Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và TKCN tỉnh gửi đến các địa phương và đăng tải trên Website: http://pctt;quangnam;vn).

9. Tiếp tục theo dõi, triển khai thực hiện Đề án nâng cao nhận thức cộng động và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng gắn với thực hiện tiêu chí 3.2 “Đảm bảo điều kiện đáp ứng yêu cầu dân sinh và theo quy định về phòng, chống thiên tai tại chỗ” trong chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới.

10. Tăng cường hoạt động thông tin truyền thông, hướng dẫn kỹ năng phòng ngừa, ứng phó với các loại hình thiên tai phổ biến đến với người dân.

                      BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG – TỈNH ỦY QUẢNG NAM